I. Việt Nam nên áp dụng QDMTT
Các Quy tắc Chống Xói mòn Cơ sở Thuế Toàn cầu (Global Anti-Base Erosion – Quy tắc GloBE) bao gồm một bộ các quy tắc khác nhau áp dụng đối với các công ty có doanh thu hợp nhất trên toàn cầu hàng năm đạt mức trên 750 triệu EUR, nhằm đảm bảo mọi khoản lợi nhuận của các công ty, bất kể thu được ở quốc gia nào, đều phải chịu một khoản thuế TNDN ít nhất đạt 15%. Các quy tắc gộp thu nhập (Income Inclusion Rule – IIR) và quy tắc thanh toán thuế thiếu (Undertaxed payment rule – UTPR) hướng tới giành quyền đánh thuế cho các quốc gia đi đầu tư, trong khi việc áp dụng thuế tối thiểu nội địa bổ sung là công cụ ưu tiên bảo vệ nguồn thu và quyền đánh thuế cho quốc gia nhận đầu tư.
Các quốc gia hoàn toàn có quyền tự chủ khi đưa ra các quy định và áp dụng thuế tối thiểu nội địa bổ sung theo những cách khác nhau. Về cơ bản có hai cách tiếp cận chính: (1) Áp dụng QDMTT, được định nghĩa bởi Quy tắc GloBE; hoặc (2) Áp dụng thuế tối thiểu nội địa bổ sung chung (15%) nhưng không thỏa mãn tiêu chuẩn QDMTT.
QDMTT có những ưu điểm gì?
Khi so sánh giữa hai cách tiếp cận này, chúng tôi thấy QDMTT có nhiều ưu điểm tốt hơn so với việc áp dụng thuế tối thiểu nội địa không đạt chuẩn.
- Nếu Việt Nam áp dụng QDMTT, thu nhập của công ty con phát sinh tại Việt Nam sẽ không phải chịu thêm bất kì khoản thuế bổ sung nào theo Quy tắc GloBE tại các quốc gia khác. Trong trường hợp áp dụng thuế bổ sung nội địa khác không đạt chuẩn, sẽ có rủi ro là thuế đã nộp ở Việt Nam có thể được ghi nhận vào thuế áp dụng điều chỉnh (Adjusted Covered Tax), nhưng vẫn phát sinh thêm thuế bổ sung (Top-Up Tax) khi áp dụng theo công thức của Quy tắc GloBE.
- Trong khi đó, QDMTT cho phép Việt Nam áp dụng một loại thuế bổ sung vừa đủ để ngăn chặn bất kỳ khoản thuế bổ sung nào phát sinh ở nước thứ ba, mà không vượt quá giới hạn đó (15%). Ví dụ: QDMTT có thể được thiết kế để chỉ áp dụng cho các công ty con của các tập đoàn đa quốc gia (MNE) thuộc phạm vi áp dụng của Quy tắc GloBE (doanh thu toàn cầu lớn hơn 750 triệu EUR). Nghĩa là, các công ty không thuộc phạm vi áp dụng của các Quy tắc GloBE sẽ không phải chịu thuế bổ sung nội địa tại Việt Nam. Hoặc QDMTT cũng có thể được thiết kế để các công ty thuộc đối tượng áp dụng của Trụ cột 2, nhưng đã hết thời gian ưu đãi và hiện đang áp dụng mức thuế suất hiệu quả trên 15%, không bị ảnh hưởng bởi quy định này. Như vậy, Chính phủ sẽ không mất đi số thuế thu được từ các đối tượng này. Như vậy, QDMTT có thể được thiết kế để chỉ tập trung vào các đối tượng thực sự bị ảnh hưởng bởi Trụ cột 2, trong khi các đối tượng khác vẫn có thể tiếp tục với các chính sách thuế hiện hành. Với chính sách thuế nâng thuế suất chung lên 15% và không đạt chuẩn, có thể sẽ khó thiết kế để phân biệt các nhóm đối tượng áp dụng.
- QDMTT có thể bao gồm khoản khấu trừ thu nhập theo hoạt động kinh tế thực chất (substance-based income exclusion – SBIE), giúp giảm số thuế bổ sung. Đây là một lợi thế của các nước nhận đầu tư nơi có các hoạt động thực chất. Trong giai đoạn chuyển tiếp 10 năm đầu, SBIE được áp dụng ở mức 8% giá trị ghi sổ của tài sản hữu hình và 10% chi phí tiền lương. Nếu Việt Nam nâng thuế suất nội địa lên 15%, đồng thời cho phép khấu trừ một tỷ lệ tương tự đối với khoản thu nhập cho hoạt động kinh tế thực chất, việc khấu trừ này cũng không tạo ra một số thuế bổ sung vừa đủ như trường hợp áp dụng QDMTT. Bởi các Quy tắc GloBE có nguyên tắc xử lý khác nhau đối với số thuế nội địa bổ sung đạt chuẩn và không đạt chuẩn.
- QDMTT cho phép kết hợp các quy định về bến cảng an toàn và sẽ được OECD hướng dẫn cụ thể. Theo các Quy tắc GloBE được đề xuất, dự kiến sẽ có một số quy định bến cảng an toàn, được thiết kế để giảm gánh nặng tuân thủ của các MNE trong một số tình huống nhất định. Ví dụ: nếu doanh thu của một MNE tại một quốc gia dưới 10 triệu EUR, và lợi nhuận dưới 1 triệu EUR, thì thuế bổ sung được coi là bằng không. Các quy định bến cảng an toàn khác cũng được đề xuất[1]. QDMTT cho phép việc kết hợp các quy định về bến cảng an toàn tương tự vào luật thuế bổ sung trong nước. Diễn đàn hợp tác chung OECD sẽ tiếp tục nghiên cứu để có các hướng dẫn cụ thể về vấn đề các quy định bến cảng an toàn được thiết kế và kết hợp như thế nào khi áp dụng QDMTT. Trường hợp Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu nội địa không đạt chuẩn, Việt Nam sẽ phải tự nghiên cứu và thiết kế chính sách và rất khó để đạt được kết quả tiệm cận với chính sách chuẩn do OECD thiết kế.
- Từ góc độ của nhà đầu tư, các MNE, thuộc đối tượng điều chỉnh của Trụ cột 2, có thể kỳ vọng Việt Nam áp dụng một loại thuế bổ sung nội địa đáp ứng tiêu chuẩn QDMTT do họ phải thực hiện và tuân thủ các Quy tắc GloBE tại tất cả các vùng lãnh thổ mà họ hoạt động kinh doanh. Nếu các nước, trong đó có Việt Nam, áp dụng QDMTT, các MNE có thể thuận lợi hơn trong việc tính thuế bổ sung theo cách mà họ đã quen thực hiện, thay vì theo một cách khác. Sự thống nhất trong cách tính toán và thực hiện sẽ tiết kiệm được chi phí tuân thủ và mang lại lợi ích tối ưu cho các MNE.
- Từ góc độ của Chính phủ Việt Nam (Chính phủ), việc áp dụng QDMTT có thể đem lại những ý nghĩa quan trọng như: (1) Tạo sự thuận lợi và tiết kiệm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, một cách thể hiện sự đồng hành cùng doanh nghiệp; (2) Thể hiện sự tiến bộ và minh bạch trong hệ thống quản lý thuế và môi trường đầu tư kinh doanh, tiệm cận các chuẩn mực quốc tế; (3) QDMTT giúp tạo sự ổn định trong hệ thống chính sách bởi nếu áp dụng thuế tối thiểu nội địa không đạt chuẩn, Chính phủ có thể phải tiếp tục sửa đổi và cập nhật trong quá trình thực thi các chính sách này, gây bất lợi cho doanh nghiệp; (4) Vẫn duy trì được các chính sách ưu đãi hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp không thuộc đối tượng của Trụ cột 2.
Những khó khăn và rủi ro khi áp dụng QDMTT
Thứ nhất: Việc tính toán theo QDMTT rất phức tạp. QDMTT buộc phải được thiết kế tuân theo các hướng dẫn tại Quy tắc GloBE để đảm bảo đạt chuẩn. Việc tính toán thu nhập GloBE (GloBE income) và thuế được bao gồm (Covered tax) theo đúng các quy tắc này có thể sẽ rất phức tạp. Thực tế rất nhiều quốc gia đã quyết định và đã ban hành luật áp dụng IIR, UTPR và QDMTT. Đây là một cuộc chơi lớn, trên phạm vi toàn cầu, nên không quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc. Các công ty tư vấn quốc tế chắc chắn đều đã xây dựng công cụ tính toán để sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và hoàn toàn có thể hỗ trợ các nhà làm chính sách của Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống và công cụ phù hợp. Các MNE bị ảnh hưởng ở Việt Nam có thể không quá nhiều nên Chính phủ có thể cân nhắc một phương án quản lý tập trung đối với các đối tượng này. Theo đó, việc trang bị kiến thức và công cụ cho mục đích quản lý là hoàn toàn khả thi.
Thứ hai: QDMTT có thể đem lại rủi ro về pháp lý. Khi Việt Nam áp dụng QDMTT cho các MNE thuộc đối tượng áp dụng của Trụ cột 2, họ sẽ bắt buộc phải nộp thuế tối thiểu nội địa tại Việt Nam. Trong khi đó, Luật Đầu tư năm 2020[2] và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008[3] của Việt Nam đưa ra các nguyên tắc về bảo đảm đầu tư và bảo đảm ổn định chính sách ưu đãi. Theo các nguyên tắc này, khi có sự thay đổi pháp luật, dẫn đến các ưu đãi mới kém thuận lợi hơn các chính sách cũ, nhà đầu tư được quyền áp dụng các ưu đãi có lợi hơn nếu vẫn đáp ứng các điều kiện đặt ra. Các nhà đầu tư có thể tìm cách sử dụng điều khoản này để lập luận rằng họ được miễn áp dụng những thay đổi trong chính sách thuế và có thể khiếu kiện lên các cơ quan trọng tài quốc tế. Cơ quan trọng tài quốc tế có thể xem xét quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài dựa trên các quy định trong nước. Tuy nhiên, các rủi ro về pháp lý có thể sẽ không cao nếu Chính phủ có phương án kiểm soát hiệu quả. Về vấn đề này đã có nhiều khuyến nghị được đưa ra.
Phân tích của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) về QDMTT cho thấy khó khăn trong việc thu ngân sách dựa trên QDMTT có thể là các điều khoản bảo hộ đầu tư trong các thoả thuận về thuế với các MNE. Các điều khoản bảo hộ này có thể ngăn cản việc ban hành các loại thuế mới. Tuy nhiên, việc áp dụng QDMTT không làm tăng nghĩa vụ thuế toàn cầu của các MNE, vì nghĩa vụ thuế vẫn thuộc phạm vi theo IIR hoặc UTPR của quốc gia khác, vốn không bị ràng buộc bởi điều khoản bảo hộ đầu tư. Do đó, Chính phủ nên cố gắng đàm phán lại các điều khoản loại trừ QDMTT với các MNE, do đây chỉ đơn thuần là thực hiện quyền thu thuế trước các quốc gia khác.
Viện Phát triển Bền vững Quốc tế (International Institute for Sustainable Development) và Dự án Luật sư Cao cấp Quốc tế (International Senior Lawyers Project) đã công bố tài liệu hướng dẫn các quốc gia đang phát triển hiểu và thích ứng với thuế tối thuế toàn cầu với một số các đánh giá và khuyến nghị rất cụ thể[4].
Cách tiếp cận 1: Yêu cầu người nộp thuế đơn phương tiết lộ thông tin
Người nộp thuế được khuyến khích tự nguyện đồng ý nộp thuế ở nước nguồn và bỏ qua các điều khoản tài khóa ổn định. Nếu người đóng thuế chọn không tuân thủ những thay đổi của nội luật ở quốc gia sở tại để thích ứng với Quy tắc GloBE, họ có thể khởi kiện đến trọng tài. Mặc dù họ có thể thành công về mặt pháp lý, nhưng họ có thể thất bại trong việc chứng minh tổn thất vì người nộp thuế vẫn phải nộp thuế ở nơi khác. Thông thường, các công ty vì các lý do rất thực tế sẽ có xu hướng chọn đóng thuế cho chính phủ sở tại, nơi các hoạt động kinh doanh được tiến hành thay vì quốc gia của công ty mẹ tối cao.
OECD có thể giúp hỗ trợ các nước đang phát triển liên quan đến việc ổn định bằng cách khuyến khích mạnh mẽ các công ty tuân thủ các yêu cầu về việc đơn phương chia sẻ, và các tòa án áp dụng một cái nhìn thực tế về các tổn thất liên quan cụ thể đến Quy tắc GloBE.
Cách tiếp cận 2: Đàm phán lại các điều khoản tài khóa ổn định trong các thỏa thuận đầu tư
Một số quốc gia có thể muốn đàm phán lại các thỏa thuận đầu tư, đặc biệt nếu họ muốn thực hiện các thay đổi trong nội luật vượt khỏi hạn chế tác động của QDMTT. Ví dụ: nếu một quốc gia áp dụng một loại thuế tối thiểu nội địa khác, chẳng hạn như thuế tối thiểu chung, hoặc xóa bỏ/ sửa đổi một số chính ưu đãi thuế cụ thể, hoặc vì một thỏa thuận đầu tư liên quan đến nhiều hợp đồng và nhiều người nộp thuế có cấu trúc thuế phức tạp. Trong những trường hợp như vậy, việc sửa đổi thỏa thuận đầu tư ổn định cần sự thỏa thuận giữa quốc gia đó và các nhà đầu tư. Trong trường hợp này, không nhất thiết phải hủy bỏ toàn bộ các điều khoản ổn định mà chỉ cần sửa đổi các điều khoản mà có thể ngăn cản việc áp dụng các quy tắc mới.
Các quốc gia cũng được khuyến nghị trong tương lai nên tránh đưa các điều khoản ổn định tài khóa vào thỏa thuận đầu tư hoặc các luật trong nước làm cố định hoặc ổn định mức thuế suất hiệu quả trong nước dưới mức thuế suất tối thiểu toàn cầu và/hoặc hạn chế việc áp dụng các thay đổi các luật trong nước để đáp ứng với Quy tắc GloBE.
Như vậy, trong cuộc chơi mới mang tính toàn cầu, Chính phủ nên sẵn sàng đối mặt với những khó khăn và thách thức, đồng thời chủ động và mạnh dạn trong việc sử dụng các nguồn lực để tiếp cận và hội nhập với các tiêu chuẩn quốc tế. Các đơn vị tư vấn quốc tế luôn sẵn sàng đồng hành cùng Chính phủ. OECD cũng sẵn sàng có các hỗ trợ về kỹ thuật và khuyến nghị phù hợp với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam vì một mục tiêu chung trong việc thực hiện các quy tắc này.
Theo thống kê không chính thức mà chúng tôi có được, hiện nay có khoảng hơn 1.000 doanh nghiệp thuộc đối tượng của Trụ cột 2, trong đó có khoảng 70 doanh nghiệp đang hoạt động có lãi và có thể bị ảnh hưởng trực tiếp. Số lượng tuy không nhiều nhưng những doanh nghiệp này là có quy mô đầu tư lớn, có tên tuổi và sức ảnh hưởng trên toàn cầu. Việc đàm phán với các nhà đầu tư là việc rất nên và rất khả thi để để thực hiện.